Chỉ tính từ ngày 1/11/1963, phút cáo chung của
chế độ Ngô Đình Diệm, cho đến ngày 19/2/1965, chỉ 13 tháng đã có tới 4
cuộc đảo chính. Trong số những "chuyên gia" phản loạn, Thiếu tướng Lâm
Văn Phát được xem là nổi bật nhất. Có bao nhiêu cuộc đảo chính, ông ta
góp mặt đủ bấy nhiêu. Nhưng, kể cả những lần thành công, cũng chẳng ai
giao cho ông ta một vai trò lãnh đạo then chốt nào. "Cốt khỉ vẫn hoàn
cốt khỉ", trên sân khấu tranh giành quyền lực ở miền Nam, tướng Lâm Văn
Phát cũng bị ngay chính phe nhóm nhất thời của ông ta ái ngại!
Thiếu tướng Lâm Văn Phát.
Cuộc đời muôn mặt của viên loạn tướng
Cuộc đời Lâm Văn Phát luôn có
những thay đổi từ cực này sang cực khác, nhanh như hai mặt của một con
thò lò. Ông sinh năm 1927 tại Cần Thơ, trong một gia đình có truyền
thống Cách mạng lẫn học hành nổi tiếng, xứng đáng được kính trọng. Thân
sinh ông ta là nhà giáo Lâm Văn Phận, tham gia Mặt trận Việt Minh rất
sớm, từng có thời gian giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Liên Việt
tỉnh Cần Thơ.
Sau 1954, ông Phận tập kết ra
miền Bắc và qua đời ở đó. Ông Phát có chị là Lâm Thị Phấn, Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân, nguyên mẫu nhân vật Bạch Cúc trong phim "Người
đẹp Tây Đô".
Bản thân Lâm Văn Phát, khi còn
theo học bậc trung học đã gia nhập Thanh niên Tiền phong, tham gia cướp
chính quyền tại Cần Thơ. Trớ trêu thay, sau khi thực dân Pháp nổ súng
tái chiếm Nam Bộ, trở về Cần Thơ học tú tài xong, Phát lại gia nhập quân
đội Pháp, trở mặt với lý tưởng mà gia đình và bản thân từng đeo đuổi,
được phong hàm thiếu úy.
Nhưng chỉ một năm sau (1946),
ông lại đào ngũ, tham gia kháng chiến tại Khu 8 và trở thành một Trung
đội trưởng Vệ quốc quân. Nếu cứ con đường chính nghĩa đó mà đi giữa lòng
dân tộc, chắc chắn cuộc đời ông ta đã khác. Thế nhưng, chẳng được bao
lâu, năm 1948, ông ta lại bỏ chiến khu, trốn về lại Cần Thơ.
Quan ngại, ông Lâm Văn Phận đã
tìm cách cách ly Phát khỏi sự dính líu chính trị, gửi Phát sang Pháp
theo học ngành cơ khí. Ngựa chứng không thích bị đeo cương học hành chưa
đâu vào đâu, chẳng biết ma đưa lối, quỷ dẫn đường thế nào, một lần nữa
Lâm Văn Phát lại đi vào quân đội và theo học trường thiết giáp của lục
quân Pháp tại Oran, Algeria, Bắc Phi.
Ra trường với cấp bậc trung úy,
Lâm Văn Phát được đưa trở về Việt Nam, trực thuộc Bộ chỉ huy quân đội
viễn chinh Pháp tại mặt trận Đông Dương. Quân đội quốc gia thành lập
(1951), Lâm Văn Phát được thăng đại úy và chuyển sang làm việc tại võ
phòng của Quốc trưởng Bảo Đại. Năm 1952, Lâm Văn Phát được điều sang
phục vụ tại Bộ Tổng tham mưu quân đội quốc gia Việt Nam với hàm thiếu
tá, đến năm 1954 thì lên trung tá.
Năm 1958, khi Ngô Đình Diệm đã
thâu tóm hết quyền lực trong tay, phế truất Bảo Đại, lên ngôi tổng
thống, Lâm Văn Phát lại được cử sang Mỹ theo học khóa sĩ quan - tham mưu
tại Fort Leavenworth kéo dài một năm. Về nước, ông ta được thăng hàm
đại tá, nhưng không được Ngô Đình Diệm tin dùng, nên chỉ nắm những chức
vụ không có thực quyền, chuyên ngồi chơi, xơi nước! Bất mãn, Phát âm
thầm nuôi dưỡng lòng thù hận với anh em Diệm - Nhu một cách sâu sắc. Lâm
Văn Phát chẳng có chính kiến gì ngoài hám địa vị, danh lợi. Ông ta cũng
chẳng có bạn bè thân tín trong quân đội mà chỉ "mạnh đâu, xâu đó". Thế
là ông trở thành một "chuyên gia đảo chính!".
Có đảo chính là có Lâm Văn Phát
Biết rõ đại tá Lâm Văn Phát là
người cay cú với chế độ Ngô Đình Diệm, khi mấy ông tướng của quân đội
Sài Gòn họp nhau bàn chuyện đảo chính đã móc nối, ghi tên ông ta đầu
tiên vào danh sách. Ngặt một nỗi, với chức vụ chỉ huy trưởng Bảo an -
Dân vệ, ông ta không có quân trong tay. Lâm Văn Phát cũng chẳng có khả
năng gì đặc biệt, lại chưa từng chỉ huy trận mạc nên chẳng biết xếp ông
ta vào vai trò gì.
Theo kế hoạch ban đầu, Lâm Văn
Phát được giao trách nhiệm xuống Mỹ Tho để thuyết phục, nếu không thành
thì bằng mọi cách phải giành cho được quyền Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh do
đại tá Bùi Đình Đạm nắm giữ. Mục đích trước tiên là để ngăn chặn sư
đoàn này tiến về Sài Gòn giải cứu cho Ngô Đình Diệm. Thứ đến, nếu phe
đảo chính chưa thật sự thắng thế, thì đơn vị này sẽ hỗ trợ. Nhưng vì từ
lâu, mật vụ của hai anh em Diệm - Nhu biết Lâm Văn Phát thường tỏ thái
độ bất mãn chế độ, nên theo dõi rất kỹ.
Cuối cùng, phe đảo chính sợ bị
lộ, không giao trọng trách này cho Lâm Văn Phát mà thay thế bằng đại tá
Nguyễn Hữu Có. Tiếng súng khai hỏa cuộc binh biến này bắt đầu từ trưa
ngày 1/11/1963, mãi đến chiều tối, khi tình thế sắp ngã ngủ thì Lâm Văn
Phát mới được giao chỉ huy Sư đoàn 5 Bộ binh, thay thế đại tá Nguyễn Văn
Thiệu.
Ngày 2/11/1963, hai anh em Diệm
- Nhu bị hạ sát một cách thê thảm. Chẳng đóng góp gì nhiều nhưng Lâm
Văn Phát vẫn được thăng thiếu tướng ngay tối hôm đó, cùng với các đại tá
Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Đỗ Mậu…
Một tháng sau, ngày 2/12/1963,
thiếu tướng Lâm Văn Phát được chính thức nắm chức vụ Tư lệnh Phó Quân
đoàn 3, kiêm Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh. Chưa thỏa mãn, Lâm Văn Phát nhìn
quanh, thấy bộ máy quyền lực nằm trọn trong tay trung tướng Dương Văn
Minh và phe cánh, như: trung tướng Trần Văn Đôn, trung tướng Tôn Thất
Đính, trung tướng Mai Hữu Xuân, trung tướng Lê Văn Kim và thiếu tướng
Nguyễn Văn Vỹ… mà theo Phát thì những tay này cũng chẳng có ai giỏi
giang gì hơn mình. Thế là ông ta lại sinh bất mãn và cố tình rình rập để
chờ thời cơ lật đổ.
Thời cơ đó đến chỉ sau có… nửa
tháng. Trung tướng Trần Thiện Khiêm, một trong những nhân vật cầm đầu
cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, đang giữ chức vụ Tham mưu trưởng
Liên quân. Ngày 17/12/1963, Khiêm đang thay mặt Chính phủ Việt Nam Cộng
hòa sang thủ đô Seoul, Hàn Quốc dự lễ nhậm chức của Tổng thống Pak
Chung-hee thì ở nhà có lệnh giáng chức Khiêm xuống làm Tư lệnh Quân đoàn
3 mà chẳng hề thông báo lý do.
Trở về, bề ngoài tỏ ra vui vẻ
chấp hành nhưng bên trong Trần Thiện Khiêm kín đáo nuôi dưỡng âm mưu
phục hận. Biết rõ trung tướng Nguyễn Khánh, Tư lệnh Quân đoàn 1, cũng
bất phục đám tướng già đang nắm vận mệnh miền Nam, Khiêm thường xuyên
liên hệ với Khánh bằng điện đàm trên hệ thống đặc biệt của quân đội.
Hội đồng tướng lĩnh VNCH họp báo sau đảo chính ngày 19/12/1965, phế truất Nguyễn Khánh.
Đầy tham vọng, Nguyễn Khánh đã
dùng kế khích tướng với Khiêm để nắm chắc phần thắng trước khi hành
động. Ngược lại, Khiêm muốn dùng Khánh đứng mũi chịu sào, nếu gặp phúc
thì ông ta cũng được hưởng lớn mà gặp họa thì Khánh sẽ phải lĩnh nhiều
hơn. Dự mưu còn có đại tá Cao Văn Viên, Tư lệnh Lữ đoàn Dù. Ba nhân vật
đầu não này dự tính sẽ rủ rê thêm một số tướng, tá làm hậu thuẫn. Lâm
Văn Phát lại là người đầu tiên được chèo kéo.
Cuối tháng 1/1964, Nguyễn Khánh
mặc thường phục, từ miền Trung bí mật bay về Sài Gòn trên một chuyến
bay dân dụng. Người của Trần Thiện Khiêm ra sân bay đón ông ta, đưa về
tận nhà. Đêm 30/1/1964, Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm và Cao Văn Viên,
ngồi tại nhà của Khánh, nơi đặt bộ chỉ huy cuộc đảo chính. Theo lệnh của
Cao Văn Viên, một tiểu đoàn nhảy dù âm thầm chiếm cứ nhiều vị trí trọng
yếu trong Bộ Tổng tham mưu.
Đến 3h sáng, khi quân Dù đã
hoàn thành nhiệm vụ, thì một lực lượng bao gồm An ninh Quân đội, Quân
cảnh, Nhảy dù do trung tá Nguyễn Văn Luông, một đàn em thân tín của Trần
Thiện Khiêm chỉ huy, đồng loạt ập vào từng nhà, bắt giữ 4 ông trung
tướng: Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim và thiếu
tướng Nguyễn Văn Vỹ.
Cùng lúc, thiếu tướng Lâm Văn
Phát có mặt tại Bộ Tổng tham mưu với một số sĩ quan cao cấp khác theo
dõi tình hình. Đến hừng sáng, mọi việc đạt kết quả một cách hoàn hảo,
không có tiếng súng, đến nỗi ít ai biết một cuộc binh biến vừa xảy ra
trong đêm. Ngay hôm sau, 5 ông tướng bị bắt, được giải giao ra quản thúc
tại Đà Nẵng, với tội danh mơ hồ: Chủ xướng trung lập, bị đặt dưới sự
cai quản của đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh phó Quân đoàn 1.
Nguyễn Khánh lên ngôi, tự gọi
đó là cuộc chỉnh lý. Ngày 2/2/1964, thiếu tướng Lâm Văn Phát được đưa
lên làm Tư lệnh Quân đoàn 3, thay thế Trần Thiện Khiêm vừa nhảy tót lên
chức Tổng trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng quân đội. Đến ngày
4/4/1964, Lâm Văn Phát lại được mời làm Tổng trưởng Nội vụ. Lên vù vù,
Lâm Văn Phát cũng chưa hài lòng. Trong mắt Phát, bộ ba Nguyễn Khánh,
Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên "ăn" dễ quá. Ông ta lại rắp tâm đảo
chính.
Phát âm thầm móc nối với Trung
tướng Dương Văn Đức, Tư lệnh Quân đoàn 4 để mưu cầu đại sự. Nếu thành
công, tướng Đức hạ bệ được Nguyễn Khánh, Phát sẽ lăm le ghế thủ tướng,
hay ít nhất cũng Tổng Tham mưu trưởng quân đội.
Ngày 13/9/1964, Dương Văn Đức
và Lâm Văn Phát xua Quân đoàn 4 tiến về Sài Gòn. Nhưng, chỉ là một cuộc
đảo chính… tập sự. Người miền Nam trước năm 1975 thường có câu mai mỉa:
"Mưu sự tại nhân, thành sự tại Mỹ!".
Không được người Mỹ ủng hộ,
Dương Văn Đức không biết giương ngọn cờ nào, không dám nhận là đảo
chính, chỉ gọi cuộc binh biến của mình là "biểu dương lực lượng", dù
cũng chẳng biết "biểu dương lực lượng" để làm gì? Lâm Văn Phát cũng chỉ
là một tay ấm ớ hội tề, miệng hùm gan sứa. Khí thế đang hừng hực, cả hai
bỗng ra lệnh dừng quân tại Phú Lâm để chờ, mà chưa biết mình chờ đợi
cái gì!!!
Lập tức, tướng Nguyễn Cao Kỳ và
một số tướng tá trẻ đang phò Nguyễn Khánh, vừa mở cuộc điều đình, vừa
hăm dọa Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát. Theo đó, nếu hai kẻ hữu dũng vô
mưu này chịu rút quân về sẽ được giữ nguyên chức vụ cũ, còn không sẽ bị
ném bom. Hoảng quá, Dương Văn Đức ra lệnh lui binh. Mấy ngày sau, được
mời về Sài Gòn, Dương Văn Đức vẫn ngây thơ đến độ tưởng Nguyễn Khánh
muốn giải kết mâu thuẫn trong tình "huynh đệ chi binh". Nào ngờ, ông ta
bị bắt tạm giam luôn!
Sau đó cả Dương Văn Đức - Lâm
Văn phát và một số sĩ quan khác đã bị Nguyễn Khánh cách chức và buộc
phải rời khỏi quân đội. Giận mình thua trí người ta, trung tướng Dương
Văn Đức phát luôn cơn tâm thần!
Ai cũng tưởng, tới đây Lâm Văn
Phát đã hết lửa. Nào ngờ đến ngày 19/2/1965, ông ta lại tham gia cuộc
đảo chính do Đại tá Phạm Ngọc Thảo (một chiến sĩ Cách mạng hoạt động
trong lòng địch, nguyên mẫu nhân vật Nguyễn Thành Luân trong phim “Ván
bài lật ngửa”) cầm đầu.
Đại tá Phạm Ngọc Thảo (người ngồi) trong ngày đảo chính 19/2/1965.
Kế hoạch của Đại tá
Thảo được thực hiện gần như hoàn chỉnh, tưởng chừng như đã gặt hái thành
công khi lực lượng của ông đã chiếm được sân bay Tân Sơn Nhất, Đài Phát
thanh, bến Bạch Đằng, Bộ Tổng tham mưu và suýt bắt được Nguyễn Khánh.
Vừa ăn trưa xong tại một biệt thự trong Bộ Tổng tham mưu, thấy có biến,
Nguyễn Khánh vội trốn qua phi trường gặp tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư Lệnh
Không quân, cả hai trốn lên phi trường Biên Hòa. Kỳ đã cho một máy bay
chở Nguyễn Khánh xuống Vũng Tàu lánh nạn.
Các tướng Nguyễn Văn Thiệu,
Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi cầm đầu nhóm tướng trẻ chống lại đảo
chính, chặn kế hoạch của Phạm Ngọc Thảo - Lâm Văn Phát nhưng cũng không
phò trợ Nguyễn Khánh - người đã bị nhóm đảo chính tước bỏ quyền lực.
Ngày 25/2/1965, Nguyễn Khánh
buộc phải rời Việt Nam, sống đời lưu vong dưới danh nghĩa "đại sứ lưu
động" của Việt Nam Cộng hòa, một đại sứ không có nhiệm sở, không biết
trình ủy nhiệm thư ở đâu! Những người cầm đầu cuộc đảo chính và 13 sĩ
quan tham gia bị gọi ra trình diện. Đại tá Phạm Ngọc Thảo đã không chấp
hành. Ông bị bắt và bị thủ tiêu một cách mờ ám. Còn Lâm Văn Phát thì đã
nhanh nhảu ra trình diện và được tha.
Từ đó, Phát chìm vào bóng tối
suốt 10 năm liền. Bỗng dưng, ngày 28/4/1975, người ta thấy Lâm Văn Phát
tái xuất trong vai trò Tu lệnh Biệt khu Thủ đô của Chính phủ Dương Văn
Minh, chỉ huy tàn quân phòng thủ Sài Gòn. Nhiều người cho rằng Lâm Văn
Phát là kẻ bất trí, chỉ tham quyền chức. Chỉ hai ngày sau, ông ta được
mang hia, đội mão để dẫn quân lính ra... đầu hàng Quân Giải phóng!
Đoàn Thiên Lý
Theo CAND
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét