Ông sinh ngày 15 tháng 11 năm 1942 tại Hà Nội. Quê quán của ông là xã Đông Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm, hệ 3 năm vào năm 1964, sau đó gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam cho đến đầu năm 1979. Trong quân đội ông có nhiệm vụ chính là dạy học và về sau làm báo. Ông từng giáp mặt với thực tế chiến trường như B5, B4.
Bảy bước tới tha hóa
Vương
Trí Nhàn
Hồi nhỏ, cũng như một số bạn bè
cùng tuổi, tôi là đứa trẻ đãng trí, hay đánh mất những thứ lặt vặt: khi cái
khăn mùi xoa, cái mũ, khi quyển truyện hoặc cái bút chì. Thông thường bố mẹ ở
nhà cho qua không mắng mỏ gì đáng kể. Nhưng đâu một hai lần, tôi nhớ không
những bị đánh cho mấy roi cứ gọi là quắn đít, mà còn bị hỏi căn hỏi vặn:
Mẹ đã nhắc con giữ cẩn thân cơ mà.
Chạy nhảy thế nào mà đánh mất, kể lại xem nào.
Thử nhớ lại xem, con đánh rơi ở đâu? Con đã để ý đi tìm chưa?....
Chạy nhảy thế nào mà đánh mất, kể lại xem nào.
Thử nhớ lại xem, con đánh rơi ở đâu? Con đã để ý đi tìm chưa?....
Đến bây giờ tôi cũng không nhớ lần
ấy đánh mất cái gì, chỉ đoán chắc là mấy thử đắt tiền lắm, chứ không phải ba
cái đồ vớ vẩn như mọi khi. Người ta chỉ phải suy nghĩ về sự mất mát khi cái bị
đánh mất được coi là quan trọng.
Liên hệ tới chuyện ngày nay:
Niềm thiết tha với cái tốt cái đẹp
vốn nằm trong tâm trí chúng ta từ thuở thiếu thời, khi đang còn cắp sách đến
trường. Mấy chục năm nay, Nhà nước cách mạng cũng luôn luôn kêu gọi mỗi thành
viên của xã hội gắng trau dồi đạo đức. Câu nói của thầy Mạnh "Phú quý bất
năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” thường được nhắc nhở vì
trong một hình thức cũ, ló lại diễn tả tốt nhất nội dung chủ yếu của đạo đức
mới - sự vững vàng của nhân cách. Nhưng liệu có thể nói mỗi người chúng ta đã
làm được điều chúng ta mong mỏi?
Giả sử bây giờ, ra giữa buổi họp,
tôi bảo ông nọ bà kia là thoái hoá biến chất, mọi người sẽ cho tôi là có hiềm
khích gì đó với họ, nên mới ăn nói sỗ sàng như vậy. Nếu tôi lại mạnh mồm khái
quát rằng nay là lúc không ít người trong chúng ta đang hư hỏng đi, thì người
ta sẽ bảo tôi là liều lĩnh vô căn cứ, là không có cái nhìn toàn cục, không thấy
"mặt tốt là chủ yếu”.
Nhưng nhiều lúc ngồi một mình tỉnh
táo, đối diện với lương tâm, hẳn nhiều người chúng ta phải công nhận là quanh
mình số người hiền lành thánh thiện ngày một ít, số khôn ranh kiếm chác ngày
một nhiều thêm. Và tự ta nữa, nghiêm khắc mà nói, ta cũng đang sống không phải
như ta mong muốn. Ở đây không nói tới những tội lỗi đã thành danh mục quản lý
của pháp luật, mà chỉ nói tới những thói xấu nho nhỏ những thói xấu vẫn bị coi
là không đáng kể, và dễ bị bỏ qua: Xoay xỏa vụ lợi. Làm dở báo cáo hay qua loa
vô trách nhiệm. Khéo léo tô vẽ mình trước cấp trên. Hùa theo đám đông, nói cho
đám đông vừa lòng, chứ không dám nói sự thật.. Có phải là không ít thì nhiều,
hàng ngày chúng ta đã để cho những thói xấu đó lộng hành? So với con người lý
tưởng mà ta muốn noi theo, khi bước vào đời, thì thật ra ta đang xa dần, thậm
chí có những phẩm chất tốt mà ta có từ lúc còn trẻ và cứ tưởng giữ được mãi,
bây giờ đã bị đánh mất.
Nay không còn là lúc sợ ai lục vấn
mình như cậu bé năm xưa nữa. Nhưng có lẽ, với tư cách người có học, sống nhiều
bằng ý thức, cũng nên quan sát chính mình xem xem một quá trình tâm lý như thế
nào đã xảy ra, khi ta tự đánh mất một phần tốt đẹp ở con người mình như vậy.
Dưới đây là một vài nhận xét tôi
rút ra từ kinh nghiệm bản thân và qua quan sát những người gần gũi chung quanh:
1. Sự kiếm sống hàng ngày là một
khái niệm lâu nay chúng ta hay lẩn tránh và nó chỉ tồn tại như một giá trị ẩn,
không được mang ra tính toán công khai. Nhưng phải nhận nó vẫn là nhu cầu có
thực, hàng ngày gây sức ép với mọi người. Có nhiều việc ta biết là trái đạo lý
song vẫn phải làm, chẳng qua chỉ là nhằm kiếm thêm ít tiền bạc, để cùng với
đồng lương còm cõi, duy trì sự sống của bản thân và gia đình.
2. Các thói xấu lấn lướt ta mỗi
ngày một ít. Thời gian đầu ta thường vừa làm vừa tự nhủ: chỉ chấp nhận đầu hàng
lần này nữa thôi, sau sẽ không bao giờ tái diễn! Nhưng càng về sau, sự dằn vặt
càng thưa thớt đi. Đời sống hàng ngày mang lại bao nhiêu căng thẳng mệt mỏi,
khiến cho mỗi người chỉ có cách trượt theo thói quen và tránh nhất là gây thêm
cho mình những phiền phức.
3. Có một điều ta thường viện ra để
an ủi, ấy là khi thử đưa mắt quan sát thấy không phải chỉ có riêng mình làm
bậy, mà chung quanh, cả những người có uy danh hơn, có trách nhiệm hơn, cũng
đâu có giữ được lý tưởng - "Hơi đâu gái goá lo việc triều đình" - đấy
là lý lẽ của những cái đinh ốc bé nhỏ.
4. Khái quát hơn. quả thật có nhiều
việc thấy trái với lương tâm ta vẫn cứ làm, vì xem ra chung quanh mình, mọi
người đều hành động như vậy. Mà cảm giác sống theo tập thể ăn vào ta rất nặng.
Ta sợ trở thành đơn độc lại càng sợ mang tiếng là chơi trội, dám khác mọi
người(!).
5. Người ta ai mà chẳng vừa sống
vừa trông trước trông sau xem cách sống của mình được đánh giá ra sao, và được
đền đáp ra sao. Đến lúc thấy bao nhiêu cố gắng của mình cũng vô ích, những
người tốt như mình thường thua thiệt, còn những kẻ xấu cứ được đủ thứ và lại
leo cao mãi lên thì đành ngán ngầm buông xuôi (Sau khi phát hiện điều này, một
số sẽ dãy dựa cốt vớt lại ít quyền lợi mà họ cho rằng họ đáng được hưởng. Từ ấy
trở đi, họ dám sống rất làn bạo).
6. Chắc chắn trong ta không bao giờ
chết hẳn con người lý tưởng, con người tha thiết với sự nghiệp chung. Giả sử
được xã hội dang tay dìu đỡ thì sau những lầm lỡ ban đầu, cũng dễ tu tỉnh trở
lại. Nhưng mọi chuyện quá ì ạch. Có vẻ như điều mà xã hội mong đợi hơn cả ở các
thành viên chỉ là những câu khẩu hiệu chung chung. Cái phần suy thoái trong ta
chớp ngay lấy cơ hội thuận lợi đó. Nảy sinh tình trạng phân thân, sống một
đằng, nói một nẻo và bởi lẽ, trước mặt bàn dân thiên hạ, giữa thanh thiên bạch
nhật, ta vẫn luôn mồm nói điều tốt, nên càng yên tâm xoay xỏa kiếm chác trong
bóng tối.
7. Đến lúc nào đó, ta chợt nhận ra
"rằng quen mất nết đi rồi", có lẽ sẽ không bao giờ hoàn lương được.
Sự lo sợ có tới (lo sợ chứ không phải hối hận) và để hóa giải, ta xoay sang cấu
cúng, xin xỏ, hối lộ thánh thần. Mê tín chính là mắt xích cuối cùng của sự tự
làm hỏng, nhờ cô mê tín, các khâu hoạt động khác có thể diễn ra một cách êm
đẹp. Đại khái giống như một thứ bảo hiểm!
Khi một đứa trẻ đánh mất của quý gì
đó, người ta phải căn vặn hỏi han xem quá trình đánh mất diễn ra như thế nào
bởi nghĩ rằng qua đó, giúp cho nó biết tự giữ gìn của cải và từ nay trở đi
không đánh mất nữa.
Quá trình tha hoá, quá trình tự
đánh mất mình ở chúng ta có chỗ khác. Ai cũng chỉ sống một lần trên đời, cái gì
mất đi thì vĩnh viễn không lấy lại được nữa.
Vậy cần gì phải mang bản thân ra mà
tra khảo cho thêm rách việc?
Có thể có một số người đã nghĩ thế
và họ có lý của họ. Nhưng trong bài báo này, tôi muốn để nghị một cách nghĩ
khác: ít ra chúng ta cũng nên sòng phẳng với nhau. Sự đánh giá chính xác về bản
thân nên được xem như một phần di sản của một lớp người đang sống để lại cho
các lớp kế tiếp, và nếu như nhờ thế một phần, mà những người sau ta sống không
giống ta, tức là ta đã trở nên hữu ích.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét